399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
Vị trí: Lăng Minh Mạng thuộc địa phận núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch tạo thành sông Hương chảy qua Tp. Huế. Lăng cách Tp. Huế 12km.
Đặc điểm: Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc quy mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ. Lăng Minh Mạng toát lên vẻ đường bệ, uy nghiêm nhưng rất hài hòa giữa các công trình kiến trúc và thiên nhiên.
Từ năm Minh Mạng thứ 7 (1826), nhà vua đã sai tìm đất xây lăng, nhưng đến 14 năm sau mới chọn được địa điểm và đồ án thiết kế kiến trúc. Quan Lê Văn Đức là người tìm ra địa cuộc tốt lành đó và đã được nhà vua thăng cho hai cấp.
Tháng 4 - 1840, vua lên xem lại chỗ đất và đổi tên vùng núi Cẩm Kê ở đó thành ra Hiếu Sơn. Vua sai các đại thần Trương Đăng Quế, Bùi Công Huyên đem Giám Thành Vệ (xem như một đơn vị công binh) lên tiến hành khảo sát địa thế, đo đạc đất đai. Họ vẽ toàn bộ núi đồi, khe suối, sông ngòi ở đây, và sơ đồ các dự án kiến trúc từ la thành, Bửu thành, điện, lầu đình, tạ, đường, viện cho đến những nơi đào hồ, làm cầu, dựng cửa... Xem xong, nhà vua rất đắc ý, liền thưởng tiền và vải cho họ.
Đến tháng 9 - 1840, triều đình huy động 3.000 lính và thợ lên điều chỉnh mặt bằng và xây vòng La thành chung quanh khu vực kiến trúc. Hai Đổng lý đại thần Trương Đăng Quế và Hà Duy Phiên thay nhau lên giám sát công trường.
Đầu năm sau 20-1-1841, nhà vua thăng hà giữa lúc mới 50 tuổi.
Một tháng sau (20-2-1841), vua Thiệu Trị cho các đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Hữu Lễ, Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Đường đứng ra lo liệu việc tiếp tục xây lăng. Triều đình điều gần 1 vạn lính và thợ ở Bộ Binh và Bộ Công lên làm việc: 7 viên quản vệ, 140 viên suất đội, 7000 biền binh, hơn 2000 lai dịch và thợ. Riêng binh sĩ cứ hai tháng 1 lần thay phiên nhau về nghỉ. Vua ra lệnh cho Trương Đăng Quế thường xuyên lên kiểm tra đôn đốc để công việc xây lăng được chu đáo.
Quan tài của vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu thành bằng đường toại đạo ngày 20-8-1841, và tấm bia “Thánh đức thần công” dựng ngày 25-1-1842, nhưng công việc xây lăng mãi đến năm sau 1943 mới hoàn tất theo đồ án của vua Minh Mạng để lại.
Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc quy mô gồm 40 công trình lớn nhỏ, nằm trên một khu đồi núi, sông hồ thoáng mát. Toàn bộ lăng giống như một cơ thể con người nằm gối đầu lên một ngọn đồi cao trong vùng, tứ chi duỗi ra ngã ba sông gần đó.
Khu lăng có chiều sâu, từ Đại Hồng Môn đến điểm tận cùng của La thành cách nhau đến 700 mét. Vòng La thành tuy cao nhưng không hạn chế được tầm nhìn từ trong lăng ra đến vùng núi non đẹp đẽ ở bên ngoài, cảnh vật in bóng xuống hồ Trừng Minh trông như bức tranh thủy mặc.
Bên trong La thành, các công trình kiến trúc được bố trí đăng đối, đối xứng nhau từng cặp qua trục chính xuyên tâm lăng. Tất cả được xếp đặt theo một trật tự chặt chẽ, có hệ thống, nói lên cá tính và phong cách của chính vua Minh Mạng. Bửu thành xây theo hình tròn biểu thị vua là mặt trời, là đấng chí tôn có quyền lực chi phối toàn bộ xã hội quân chủ. Ở phần trước lăng, mật độ kiến trúc thưa, thoáng, cành vào sâu, kiến trúc càng dày. Các nhà kiến trúc đương thời đã đưa ba khu kiến trúc ở lăng Gia Long nằm theo chiều ngang nhập làm một, cho nằm theo chiều dọc trong một trục duy nhất ở lăng Minh Mạng. Họ cùng lợi dụng thế đất và các ngọn đồi để nâng dần chiều cao của các công trình kiến trúc.
Ngoài tính cách đăng đối uy nghiêm đường bệ, lăng Minh Mạng còn có những nét quyến rũ của thiên nhiên đã được chỉnh trang lại để làm bối cảnh cho các công trình kiến trúc.
Các kiến trúc sư bậc thầy ngày nay, cũng phải khâm phục trước nghệ thuật tạo hình tuyệt diệu của lăng Minh Mạng.
- Quyết định của Bộ Trưởng Bộ Văn Hóa Thông Tin về việc công nhận di tích số 54-QĐ/VHTT ngày 29-4-1979
Một số hình ảnh về lăng Minh Mạng :