399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
Vua Duy Tân - Ảnh: Tư liệu |
Khi vua cha bị thực dân Pháp đưa đi đày, ông được đưa lên ngôi lúc còn bé. Do gần gũi với các chí sĩ yêu nước, ông dần dần khẳng định thái độ bất hợp tác với quân cướp nước. Ông bí mật liên lạc với Trần Cao Vân, Thái Phiên, tán thành cuộc khởi nghĩa trong năm 1916. Việc đại nghĩa thất bại, ông bị bắt ngày 6-5-1916 và đến ngày 3-11-1916 bị đày sang đảo Réunion (Đông Nam châu Phi).
Trong thế chiến thứ hai (1936-1945), ông gia nhập quân đội Đồng Minh chống phát xít Đức. Cuối năm 1945, ông từ trần vì tai nạn máy bay ngày 26-12-1945 tại Bắc Phi, hưởng dương 45 tuổi.
Mãi đến ngày 2-4-1987 hài cốt của ông mới được đưa từ đảo Réunion về Việt Nam, rồi đưa về Huế cải táng bên cạnh vua cha Thành Thái.
Đương thời, Huỳnh Thúc Kháng có bài thơ vịnh về ông như sau: (Bản dịch)
Ăn thịt phường kia dưới mắt không,
Rừng khe thầm kết những tay hùng.
Chiếu trời vải áo vừa ban xuống,
Quỷ khốc thần reo núi nổi giông.
*
Xoay trời chuyển đất thử ra tay,
Minh trị, Duy Liêm cũng bậc này.
Hùng đoàn, dẫu rằng cơ nghiệp hỏng,
Hiệu Duy Tân mới thật không sai.
* * *
Một nước cờ sai cả cuộc xong,
Chín năm ngôi báu bỏ như không.
Trong ngoài tôi tớ càn nguyên đó,
Hai bác(1) dân theo đến bước cùng.
*
Đứt ruột Cần Môn(2) ngọn sóng chiều,
Lần này hoang đảo lại buồn thiu,
Mười năm nào khác mài gươm tá,
Trong vỏ từng nghe tiếng sóng reo.
(1) Hai bác chỉ Nam Xương và Bạch Xỉ
(2) Vũng Tàu