399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
Công ty cổ phần dược phẩm An Thiên Năm Bính Dần (1826), ông đỗ tú tài, đến năm 1837 đỗ cử nhân, năm sau 1838 đỗ Hoàng giáp, được bổ vào làm Tu soạn Viện Hàn lâm, rồi ra làm Tri phủ Lý Nhân, có lúc bị giáng ba cấp, lại trở về làm Biên tu ở Sử quán.
Công ty dược phẩm An Thiên Từ năm 1846, ông cáo bệnh, về quê chữa bệnh và dạy học. Thời gian này, ông lập trại Sĩ Lâm.
Dược phẩm An Thiên Năm Đinh Tỵ (1857), ông ra làm Đốc học Nam Định, năm sau 1858, Pháp đánh chiếm Sơn Trà (Đà Nẵng) ông dâng sớ chống Pháp ở Sơn Trà (nổi tiếng về việc “Trà sơn kháng sớ” này). Ông chỉ huy đoàn quân nghĩa dũng đi kháng chiến. Hai môn đệ của ông là Đặng Ngọc Phác tức phó bảng Đặng Ngọc Cầu, và Phan Văn Xưởng tích cực cùng ông chiến đấu trực diện với quân xâm lược.
Quân Pháp rút khỏi Đà Nẵng, ông trở về cương vị Đốc học Nam Định nhưng vẫn lưu tâm tổ chức nghĩa quân kháng chiến.
Ông nhiệt thành lo nước thương dân, trên cương vị nào cũng hết lòng làm tròn nhiệm vụ. Ngày 10-12-1873 (âm lịch), ông chỉ huy đánh Pháp ở Độc Bộ, ngày 27-12 (âm lịch), lập căn cứ ở núi An Hoà chống Pháp, giữ các huyện Ý Yên, Phong Doanh.
Sau khi đã làm hết sức mình mà không như ý nguyện trong cuộc kháng chiến, có lúc ông bị triều đình bãi chức, cuối cùng ông về hưu, ở ẩn nơi động Liên Hoa.
Khi ông ở ẩn, nhiều văn thân, chí sĩ có liễn đối, thơ mừng thọ 70 tuổi của ông:
“Phong lãng kỉ hồi, đại nghĩa ná tri đầu phát bạch;
Giang sơn vô dạng, cố viên nhưng hữu cúc hoa hoàng”. (Tống Duy Tân)
Nghĩa:
Sóng gió nhiều phen, nghĩa lớn sá chi đầu tóc bạc;
Giang sơn yên ổn, vườn xưa còn đấy luống hoa vàng.
Đến ngày 12-12-1880 (âm lịch), ông mất, hưởng thọ 75 tuổi. Hiện nay, ở quê nhà làng Tam Đăng còn đền thờ của ông.
Tự kí
Nghĩa Trai thi văn tập
Tùng Viên văn tập...
– Tùng Viên văn tập (1 quyển) gồm toàn bộ thơ văn của ông từ khi đỗ cử nhân, tiến sĩ cho đến khi qua đời ở động Liên Hoa; nhất là một số bài ông làm từ khi Pháp gây chiến ở Đà Nẵng.
– Tự kí là một tập gần như tự truyện của ông về hành trạng của mình từ khi vào đời đến buổi vãn niên (1875).