399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
Đình Châm Khê toạ trên một khu đất cao, rộng, ngay cạnh và hướng mặt ra sông Ngũ Huyện Khê. Đình được khởi dựng từ lâu đời, đến thời Lê Trung Hưng được tu dựng với quy mô lớn, sang thời Nguyễn (Năm Tự Đức thứ 5-1852) lại được trùng tu. Dấu ấn trên kiến trúc từ đó đến nay vẫn giữ được khá nguyên vẹn. Đó là tòa Đại đình hình chữ đinh gồm: 5 gian Tiền tế, 3 gian Hậu cung, bộ khung gỗ lim to khoẻ, vững chắc; toà Tiền tế bốn mái to rộng, các góc đao cong vút tạo vẻ uyển chuyển, duyên dáng. Cũng tại toà Tiền tế tập trung các mảng chạm khắc hoa lá cách điệu trên cống, con rường, bẩy... khá công phu.
Cùng với giá trị kiến trúc điêu khắc, đình Châm Khê còn nổi tiếng với lễ hội truyền thống vào mồng 4 tháng 8 (âm lịch) hàng năm với nhiều tục trò, đặc biệt là tục “tắm phỗng” và hát Quan họ giao lưu, còn để lại câu ca:
“... Mồng một tắm phỗng
Mồng hai phỗng khô
Mồng ba phong cờ
Mồng bốn nhập tịch...”.
Theo tục lệ, vào những ngày đình đám thì ngay từ mồng một, làng Châm Khê đã tổ chức “rước nước” để thờ và “tắm phỗng”. Theo thần phả, sắc phong đình Châm Khê thờ Thánh Tam Giang (Trương Hống, Trương Hát) là những danh tướng của Triệu Quang Phục có công đánh giặc Lương vào thế kỷ thứ VI. Nhưng khác với nhiều làng khác thờ Thánh Tam Giang, ở Châm Khê có tới hai ngôi nghè được dựng ở trên bãi soi (dân gọi bãi Sấm) giữa dòng sông để thờ và mỗi khi đình đám hội hè sẽ rước về hội sở tại đình làng để tế lễ và mở hội. Để rước nước và tắm phỗng, làng cử ra đội rước gồm: một ông Bồi trưởng và bốn thanh niên trai tráng khoẻ mạnh, chưa vợ, gia đình yên ấm. Ông Bồi trưởng mặc quần áo đỏ, tay cầm trống khẩu điều khiển đám rước. Còn bốn thanh niên rước kiệu cũng mặc quần áo, thắt lưng, khăn chít đầu đỏ. Buổi sáng mồng 1, đám rước nước từ giếng cổ trước cửa nghè trên bãi Sấm, mang vào đình để thờ Thành hoàng. Tiếp đó rước phỗng từ trong đình ra bãi Sấm để tắm phỗng, sau lại rước vào đình để thờ. Hai tượng phỗng có dáng “phỗng Chàm”: cao khoảng 0,70m, mặt gồ ghề, cởi trần đóng khố, hai tay giơ ngang ngực, đầu có hai búi tóc xoắn ốc hai bên, luôn được thờ trên hương án ngoài Tiền tế. Việc thờ phụng phỗng Chàm có ở một số di tích ở Bắc Ninh như đình Diềm, đình Hồi Quan, Đền Đô...; song việc rước và tắm phỗng thì hẳn chỉ có ở đình Châm Khê. ẩn sâu của tín ngưỡng này là “thờ Nước” của cư dân Việt cổ làm nông nghiệp, mà làng Châm Khê là một điển hình.
Sáng ngày mồng 4 là chính hội, dân làng tổ chức rước sắc phong của Thánh từ hai nghè trong và ngoài về đình để tế lễ và mở hội. Sau khi sắc phong được rước vào đình, quan đám và các giáp lần lượt vào lễ. Sau phần lễ là phần hội hát Quan họ giao lưu bằng thuyền trên sông. Tham gia vào hát Quan họ, không những có các bọn Quan họ nam và nữ của làng Châm Khê và các làng chạ, mà còn rất nhiều các làng Quan họ khác trong vùng. Các thuyền Quan họ nam và nữ từng cặp một, bơi quanh bãi soi để hát đối đáp giao duyên. Những liền anh, liền chị bồng bềnh trên những chiếc thuyền rồng, hát nhiều làn điệu và lời ca ngọt ngào, tha thiết. Cứ thế cho đến khi chiều tà trăng lên mới thôi. Hai bên bờ sông, dân làng và khách thập phương xem đông nghịt.
Đình Châm Khê với lễ hội truyền thống có các tục cổ như tắm phỗng, phong cờ, rước nước, hát Quan họ, phản ánh bề dày lịch sử, văn hoá của làng quê này, góp phần làm nên văn hiến xứ Kinh Bắc - Bắc Ninh.