399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
Được tổ chức vào tháng ba âm lịch hàng năm, lễ hội này gắn liền với sự tích về Thánh Mẫu Liễu Hạnh và để tôn vinh Thánh Mẫu - một bậc thiên hạ mẫu nghi, vị thần chủ của tín ngưỡng thờ Mẫu, một vị thánh trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Vì vậy hàng năm cứ đến tháng ba hàng năm người dân từ mọi miền đất nước tụ họp lại để thực hiện đời sống theo tâm linh, đồng thời tham quan chiêm ngưỡng một quần thể kiến trúc độc đáo và được tham dự các sinh hoạt lễ hội văn hoá truyền thống đặc sắc.
Di tích Phủ Dầy bao gồm phủ Tiên Hương, phủ Vân Cát và lăng Chúa Liễu. Phủ chính Tiên Hương là một công trình kiên trúc đẹp, xây dựng từ thời Cảnh Trị (1663 – 1671) và đã qua nhiều lần trùng tu. Lễ hội Phủ Dày kéo dài từ ngày 3 đến ngày 8 – 3 âm lịch hàng năm, nhưng ngày chính hội là ngày mùng 3.
Du khách tới đây thật sự hấp dẫn bởi sự đan xen, hoà quyện giữa những nghi thức quan trọng cùng những hoạt động văn hoá, tâm linh đặc sắc. Ở lễ hội phủ dày người xem còn được xem những nghi lễ mang tính truyền thống như kiệu bát cống linh đình, xem múa rồng hội trên đỉnh núi Kim Thái, xem đấu vật, kéo co, đánh cờ…ngoài ra các đặc sản nổi tiếng ở địa phương cũng được giới thiệu cho du khách thưởng thức.
Để phục hồi và phát triển lễ hội như ngày nay quả thực là một điều không dễ một chút nào, đó là thành quả của đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương, trong đó phải kể đến các thủ nhang đền, chùa, lăng, những người được nhân dân tín nhiệm cử ra trông coi các di tích.
Trong bối cảnh hiện nay, sống trong xã hội hiện đại, con người quen với phố phường tấp nập, nhưng cứ đến tháng ba âm lịch hàng năm du khách thập phương từ nhiều nơi vẫn luôn nhớ về ngày “giỗ mẹ”, đó không những là một hoạt động tâm linh, mà còn là một trong những hành động thiết thực nhằm bảo tồn những giá trị văn hoá của dân tộc, một điều không thể thiếu trong xã hội hiện đại.
Ngoài những hình thức lễ thông thường như ở các di tích tôn giáo khác như đặt lễ, thắp hương, khấn vái, xin âm dương, hóa vàng lễ ở các di tích thờ Mẫu nói chung và Phủ Dầy nói riêng có thêm hình thức đặc biệt là hầu đồng (hầu bóng).
Hầu bóng gắn với hát văn và múa thiêng là hình thức lễ phổ biến nhất ở Phủ Dầy. Hát văn cùng với múa thiêng - những điệu múa mang đậm chất dân gian (múa sinh hoạt, múa chèo đò, múa hẻo...) đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho nghi lễ hầu bóng. Người ta quan niệm rằng một số người “có căn" có khả năng giao tiếp với thần linh, có thể được Thánh nhập và quan thân xác họ. Để chuẩn bị cho một buổi hầu đồng, họ phải chuẩn bị khá kỹ và khá tốn kém từ việc chọn ngày tốt chọn người hầu dâng và cung văn đến việc mua sắm trang phục, mua đồ lễ... Tùy điều kiện kinh tế mà quần áo, đồ lễ sang trọng hay bình dân, nhiều hay ít. Thông thường, quy trình của một buổi hầu đồng diễn ra qua mấy bước: với sự giúp đỡ của hai người hầu dâng, người hầu đồng trùm khăn phủ diện, lắc lư, khi Thánh giáng thì giơ tay ra hiệu cho cung văn biết. Nếu Thánh đã nhập thì tung khăn phủ diện.
Hầu bóng diễn ra liên tục trong năm, nhưng có thể nói, hình thức lễ bái, đội bát nhang, trình đồng, lên đồng diễn ra đặc biệt sôi nổi trong các ngày hội. Lễ là nguyên nhân đầu tiên quyết định thành hình hội trong các lễ hội, vì vậy nếu mất đi những sắc vẻ truyền thống và thiêng liêng của lễ thì hội cũng khó có điều kiện tồn tại lâu đời.
Rước kiệu Mẫu Liễu trong ngày tổ chức lễ hội Phủ Giầy là một nghi thức quan trọng. Lễ rước được diễn ra khá náo nhiệt với sự tham gia của các nam nữ thanh đồng, của nhân dân trong thôn, đặc biệt là có các xe tay chở sư chùa Thiên Hương đi thỉnh kinh, đoàn xe tay chở các quan, các vị chức sắc hàng huyện, tổng...
Đám rước diễn ra trong không khí hào hứng, đầy nhiệt tình của dòng người náo nhiệt trải dài. Từ các cụ già 70 - 80 tuổi đến những cháu bé, từ những người giàu có đến các thành thị cho đến lớp nghèo khó, mặt ai cũng ánh lên vẻ phấn chấn. Đoạn đường rước Mẫu không ngắn những người ta không thấy mệt mỏi vì dường như Mẫu đã tiếp thêm cho họ một nguồn sinh lực mà không dễ gì có được. Đám rước ước chừng vài nghìn người từ nhiều miền quê khác nhau nhưng đều có một điểm chung - con cháu của Mẫu.
Trong đám rước còn có sự xuất hiện của các đội múa rồng, múa sư tử, múa tứ linh, múa võ rất đẹp mắt. Có 6 con rồng với nhiều màu, đặc biệt có một con rồng mây mà theo lời một số người dân địa phương, đó gọi là rồng Thanh Long (rồng xanh), luôn múa đôi cùng rồng Hoàng Long (rồng vang). Hai con rồng này cặp đôi, hòa quyện với nhau thì đất nước sẽ hưng thịnh. Đặc biệt, trong đám rước từ Phủ Thiên Hương còn có 3 con rồng được kết bằng hàng nghìn quả bóng bay với ba màu đỏ, xanh, vàng tượng trưng cho Tam tòa Thánh Mẫu trông rất sinh động.
Trò kéo chữ đây cũng là một nét đặc sắc của Phủ Giầy. Hội kéo chữ thường được tiến hành vào ba ngày 7, 8, 9 tháng 3 hàng năm. Trước khi tổ chức kéo chữ, lý kỳ lý dịch phải lên lễ Mẫu để xin kẻo chư. Cũng có năm người lên Phủ Thông - nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh và bà Ngọc Đài để xin chữ xếp, xin được chữ gì thì dán lên bảng gỗ rồi đem treo trước phượng du. Mỗi làng cử từ 20 - 30 thanh niên được gọi là phu cờ, họ thường quấn khăn đỏ, mặc áo vàng, bụng thắt khăn đỏ, quần trắng, chân quấn xà cạp đỏ. Mỗi phu cờ cầm một gậy xếp chữ dài khoảng 4 thước dán giấy xanh, đỏ, trắng, vàng buộc nhiều tua rua, đầu gậy có ngù bằng lòng gà.
Tổng cờ sẽ là người điều khiển các phu cờ. Dưới sự điều khiển của tổng cờ, phu cờ chạy thành hàng một, vòng theo đường quanh hồ trước cửa Phủ rồi trở về sân và đứng vào vị trí đã định hình, hình thành dần cả nét chữ cho đến khi xếp xong. Nhìn từ xa trên đỉnh núi hay ngồi ở phương du cũng đều thấy nét chữ vàng nổi bật trên nền của những màu sắc sặc sỡ trông rất đẹp mắt. Chữ xếp thường là 4 chữ: "Mẫu nghi thiên hạ”, “Quang phục thánh thiện" hoặc "Hòa cốc phong đăng", "Thiên hạ thái bình". Người dân Phủ Giầy cho rằng tuỳ theo chữ kéo đầu năm mà năm đó Mẫu sẽ "gia ân" hay “gia uy" cho con nhang đệ tử.
Có thể nói, hội Phủ Giầy là một hình thức sinh hoạt văn hóa - tâm linh đáp ứng nhu cầu tinh thần - tình cảm của đông đảo nhân dân. Bằng hoạt động lễ hội, con người vừa có thể bày tỏ những tâm tư, khát vọng của mình vừa có dịp bộc lộ các khả năng sáng tạo của chính mình. Sống trong khung cảnh lễ hội, con người có được những giây phút “thăng hoa" để tạm quên đi những nỗi cực nhọc vất vả hàng ngày. Chính lễ hội đã tiếp thêm nguồn sức mạnh thiêng liêng để con người tiếp tục sống và lao động.